1. Đại cương.
- Lọc máu ngoài thận là quá trình lấy đi khỏi cơ thể những sản phẩm cặn bã và nước dư thừa.
-
Năm 1861, các nhà hoá học đã áp dụng kỹ thuật thẩm phân để tách chiết
các chất tan từ dung dịch chứa nó. Nhưng phải đợi gần một thế kỷ sau,
phương pháp lọc máu bằng thận nhân tạo mới được áp dụng trên lâm sàng.
-
Do sự phát triển của rất nhiều phương tiện lọc máu, cuộc sống của hàng
trăm ngàn người suy thận giai đoạn cuối (STGĐC) đã được cải thiện. Nhiều
bệnh nhân suy thận mạn đã sống trên 20 năm nhờ thận nhân tạo. Chỉ riêng
nước Mỹ, có khoảng 300.000 người STGĐC (242 người/1 triệu dân/năm); tỉ lệ bệnh tăng hàng năm là 8%.
-
Điều trị bằng chạy thận nhân tạo tiêu tốn khoảng 13,5 tỉ USD năm 1997
(ở Mỹ), giá mỗi lần lọc máu ngày một giảm do dùng lại bộ lọc, chất lượng
cuộc sống người bệnh tốt hơn do liều lọc máu, dinh dưỡng, điều trị
thiếu máu, tăng huyết áp có tiến bộ. Tỉ lệ bệnh chết hàng năm do STGĐC
vào khoảng 18%. Nguyên nhân chết chủ yếu do bệnh tim mạch (50%), nhiễm
trùng 15%.
2. Chỉ định lọc máu bằng thận nhân tạo.
+ Có hội chứng suy thận đã gây nên rối loạn chức năng não.
+ Có tăng K+ máu mà điều trị nội khoa không hiệu quả.
+ Toan máu không điều trị nội khoa được.
+ Hệ số thanh thải (HSTT) creatinin < 10ml/phút/1,73m2 cơ thể.
Bệnh
nhân bị STGĐC nên bắt đầu lọc máu sớm, mặc dù việc ăn hạn chế protit
nghiêm túc có thể duy trì nồng độ urê ở mức chấp nhận được nhưng nó sẽ
gây thiểu dưỡng nặng, làm tăng tỷ lệ tử vong và biến chứng sau này khi
lọc máu.
Khi
điều trị suy thận cấp (STC) có thể chọn phương pháp thận nhân tạo hay
lọc màng bụng để lọc máu. Khi điều trị suy thận mạn có thể chọn chạy
thận nhân tạo, lọc màng bụng hoặc ghép thận. Chạy thận nhân tạo hiện vẫn
là cách lựa chọn phổ biến nhất. Lọc màng bụng thích hợp cho bệnh nhân trẻ vì tự phục vụ được và không muốn
phụ thuộc vào máy. Những bệnh nhân to lớn, nặng trên 80kg bị suy thận
mạn giai đoạn cuối cần chạy thận nhân tạo vì cần đào thải một lượng lớn
urê mà lọc màng bụng không làm được.
Những bệnh nhân không có khả năng làm thông động-tĩnh mạch cho chạy thận nhân tạo nên chuyển sang phương pháp lọc màng bụng.
3. Kỹ thuật thận nhân tạo.
3.1. Quá trình khuếch tán trực tiếp qua 2 bên màng lọc của bộ lọc:
Chạy
thận nhân tạo là kỹ thuật thẩm phân máu nhờ hai nguyên lý: khuếch tán
và siêu lọc. Khuếch tán đóng vai trò quan trọng nhất trong chạy thận
nhân tạo nhưng không giống chức năng của thận. Siêu lọc tuy ít đóng vai
trò quan trọng trong chạy thận nhân tạo nhưng lại giống với chức năng
thận người.
Khuếch
tán là hiện tượng những hạt chất tan nhỏ lọt qua lỗ màng bán thấm sang
bên kia theo độ chênh lệch nồng độ. Những hạt to hơn lỗ màng bán thấm sẽ
bị giữ lại không khuếch tán được. Sự khuếch tán phụ thuộc vào tính chất
màng lọc (diện tích, kích thước và số lượng lỗ thông), độ chênh nồng độ
các chất cần lọc giữa máu và dịch lọc, tốc độ máu và tốc độ dịch lọc
qua hai bên màng lọc (tốc độ nhanh tạo ra độ chênh nồng độ lớn).
Siêu
lọc phụ thuộc vào lực đẩy các chất tan và nước qua màng. ở trong thận
nhân tạo, lực gây siêu lọc chủ yếu là bơm máu trong hệ thống tuần hoàn
ngoài cơ thể.
3.2. Bộ lọc:
Thận nhân tạo gồm 3 thành phần chính: bộ lọc, đường tạo dịch lọc và dẫn vào bộ lọc, đường máu tuần hoàn ngoài cơ thể qua bộ lọc.
Có
2 loại bộ lọc: bộ lọc sợi rỗng và bộ lọc tấm. Hiện nay, người ta dùng
bộ lọc sợi rỗng vì lượng máu mồi ít hơn (60-90ml so với 100-120ml ở bộ
lọc tấm). Diện tích màng bộ lọc cho người lớn dao động từ 0,3-1,2 m2.
Máu vào bộ lọc chảy trong các sợi rỗng, dịch lọc vào bộ lọc chảy bên
ngoài bó sợi và ngược chiều với đường máu chảy. Hiện nay, người ta dùng
những màng lọc tổng hợp không chứa những gốc OH- tự do (màng polysulfone,
polymethylmethacrylate, polyacrylonitrile) do vậy không hoạt hoá hệ
thống bổ thể và trở thành những màng hoà hợp sinh học đối với cơ thể
người.
Việc
dùng lại bộ lọc cho bệnh nhân suy thận mạn đang được áp dụng rộng rãi ở
các trung tâm lọc máu do quả lọc đắt, dùng lại sẽ giảm giá thành và tốt
hơn, còn giảm hoạt tính bổ thể, giảm tỉ lệ những phản ứng dạng phản vệ
đối với màng (giảm hội chứng dùng lần đầu) và giảm tỉ lệ chết cho bệnh
nhân lọc máu. ở Mỹ, người ta chỉ dùng lại quả lọc. Nhưng ở các nước đang
phát triển, người ta dùng lại cả đường dẫn máu. Có thể rửa quả lọc bằng
tay hoặc tự động bằng máy với nước, rồi tiệt trùng bằng formaldehyt,
peracetic axit, hydrogen peroxit.
3.3. Dịch lọc:
Thành phần dịch lọc bicarbonate như sau (mmol/l):
Natri 137-143
Kali 0 - 4
Clo 100 - 110
Canxi 0 - 3,5
Magiê 0,75 - 1,5
Acetate 2 - 4,5
Bicarbonate 30 - 35
Glucose (mg/dl) 0 - 0,25
Người
ta hay dùng đệm bicarbonat thay acetat để ít xảy ra hạ huyết áp khi lọc
máu. Nồng độ natri trong dịch lọc thấp hay gây nên tụt huyết áp, rét
run, nôn, tái nhợt...trong lúc lọc nên nồng độ natri dịch lọc được chỉnh
lên cao để tạo độ chênh thẩm thấu, cân bằng ngược với độ chênh thẩm
thấu do urê tạo ra. Trong kỹ thuật này, nồng độ natri ở dịch lọc
được
hạ dần dần từ 148-160 mmol/l xuống mức đẳng trương (140 mmol/l) ở cuối
cuộc lọc. Dịch lọc chứa 200 mg% glucose để giữ nồng độ tối ưu cho
glucose máu.
Mỗi
lần chạy thận nhân tạo cần 120 lít nước, do vậy nếu nước không được xử
lí sẽ gây nhiễm bẩn nội môi cho người bệnh. Nước chạy thận nhân tạo được
lọc trong, làm mềm, loại bỏ các ion và cuối cùng được thẩm thấu ngược
(nước được ép mạnh qua màng bán thấm ở áp lực rất cao để lọc bỏ các
nhiễm bẩn vi sinh vật và hơn 90% ion tan).
3.4. Hệ thống phân phối máu:
-
Hệ thống phân phối máu bao gồm hệ tuần hoàn ngoài cơ thể trong máy thận
nhân tạo (bơm máu, hệ thống ống dẫn máu và rất nhiều điểm cảnh báo an
toàn...). Tốc độ bơm máu thay đổi từ 200-400 ml/phút. áp lực âm tính bên
khoang dịch lọc tạo thuận lợi cho dịch từ máu chuyển sang (siêu lọc).
Mỗi màng lọc có hệ số siêu lọc khác nhau (tức là số ml được chuyển qua màng /phút/mmHg).
- Có ba cách lấy máu chạy thận nhân tạo: nối thông động-tĩnh mạch
(fistula), ghép động-tĩnh mạch, lấy qua ống thông (catheter). Nối thông
động-tĩnh mạch thường làm ở tĩnh mạch đầu với động mạch quay vùng cổ
tay (Cimino-Breschia Fistula) để động mạch hoá tĩnh mạch đầu, tạo thuận lợi cho việc chọc hút máu bằng kim to. Biến chứng hay gặp nhất
tại chỗ nối thông là nghẽn mạch do tăng sinh nội mạc làm hẹp lòng tĩnh mạch.
Những
bệnh nhân cần lọc máu nhất thời (suy thận cấp) thì đường lấy máu thực
hiện bởi catheter 2 nòng chọc vào tĩnh mạch đùi hoặc tĩnh mạch dưới đòn
hoặc tĩnh mạch cảnh trong. Dùng cách này tiện lợi nhưng dễ bị nhiễm
khuẩn và hay bị tắc làm giảm dòng máu lấy ra, do vậy chỉ thường dùng 2-3
tuần.
3.5. Hoạt động của thận nhân tạo:
Máu
của bệnh nhân được chống đông bằng heparin, được bơm vào bộ lọc từ 200-
400ml/phút, dịch lọc được làm nóng lên 37oC và bơm vào khoang đối diện
với máu theo chiều ngược lại, với tốc độ 500-800 ml/phút để hệ số thanh
lọc urê từ 200-350 ml/phút, β2 microglobulin từ 20-25 ml/phút. Hiệu quả
của việc lọc phụ thuộc vào tốc độ máu, dịch lọc qua bộ lọc và đặc tính
của bộ lọc. Thời gian lọc máu được xác định dựa vào độ lớn của hệ số
thanh thải urê trong cuộc lọc, trọng lượng người bệnh, chức năng còn lại
của thận, chế độ protein ăn vào, mức độ chuyển hoá, dị hoá, những biến
chứng của bệnh, sự ứ dịch giữa hai lần chạy thận. Với đa số bệnh nhân
suy thận mạn đòi hỏi chạy thận từ 9-12 giờ/tuần và thường chia làm 3 lần
chạy bằng nhau.
Mỗi lần lọc máu được coi là tốt khi urê máu sau cuộc lọc còn tối đa là 65% lúc trước lọc.
4. Biến chứng trong điều trị bằng thận nhân tạo.
-
Tụt huyết áp là biến chứng cấp tính hay gặp nhất trong lọc máu. Có rất
nhiều yếu tố gây tụt huyết áp: siêu lọc quá mức (làm giảm khối lượng
tuần hoàn), đáp ứng hoạt mạch suy giảm, thay đổi thẩm thấu máu, dùng
thuốc hạ áp, giãn mạch do dịch lọc quá nóng. Vì acetate ức chế tim và
làm giãn mạch nên dùng acetate làm chất đệm trong thành phần dịch lọc sẽ
gây tụt huyết áp. Khi bị tụt huyết áp thì phải ngừng siêu lọc, truyền
100-250 ml dung dịch muối đẳng trương; ở những bệnh nhân albumin máu hạ
có thể truyền albumin ít muối. Tụt huyết áp có thể dự phòng được bằng cách đánh giá cẩn thận trọng lượng khô, không uống thuốc hạ áp ngày trước lọc và ngày lọc máu, loại bỏ kim loại nặng trong dịch lọc.
-
Chuột rút cũng là biến chứng hay gặp. Tuy nhiên, từ ngày có máy thận
nhân tạo chỉnh được thể tích, điều hoà chuẩn được Na+, tỉ lệ chuột rút
ít gặp hơn. Nguyên nhân gây chuột rút còn chưa rõ. Những thay đổi tưới
máu cơ do rút dịch quá mức, đặc biệt dưới trọng lượng khô và việc dùng
dịch lọc nồng độ Na+ thấp có thể gây chuột rút. Muốn dự phòng chuột rút
thì khi lọc máu cần giảm siêu lọc, dùng dịch lọc nồng độ Na+ cao.
-
Phản ứng dạng phản vệ với bộ lọc, đặc biệt hay xảy ra trong lần dùng
đầu tiên bộ lọc cellulosa (do không phù hợp sinh học). Hội chứng này có
thể là phản ứng tăng mẫn cảm do IgE với oxyt ethylen (dùng làm chất khử
trùng bộ lọc) hoặc là một phức hợp triệu chứng đau lưng, đau ngực không
đặc hiệu xuất hiện do hoạt hoá bổ thể và giải phóng cytokine.
-
Nguyên nhân chính gây chết ở bệnh nhân STGĐC lọc máu chu kỳ là bệnh tim
mạch. Tỉ lệ chết do chạy thận chu kỳ lớn hơn do lọc màng bụng và ghép
thận.
Nguyên nhân
bệnh tim mạch ở người lọc máu bằng thận nhân tạo thì chưa được hiểu, có
thể là do điều trị tăng huyết áp chưa tốt, có tăng mỡ máu, thiếu máu,
vôi hoá động mạch vành do tăng sản vật canxi-phospho và có thể do những thay đổi động lực học tim mạch khi chạy thận nhân tạo.TS. Vũ Đình Hùng (HVQY)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét